.

Quy hoach thu do ha noi

Home » » Tình dục đồng giới và xu hướng

Tình dục đồng giới và xu hướng

Những vấn đề về Tình dục đồng giới và xu hướng

Xem thêm Ảnh và video clip về tại đây

Tình dục đồng giới (homosexual) là xu hướng và sở thích quan hệ tình dục của những người cùng giới. Các đối tượng này được xã hội gọi một cách khiếm nhã là pê-đê (từ tiếng Pháp pédé, ngắn cho pédérastie), hay gay (từ tiếng Anh, thường dùng cho phái nam) và lesbian (dùng cho phái nữ), đồng tính luyến ái (từ tiếng Việt). Khái niệm này khác với tình dục khác giới (heterosexual) và lưỡng tính dục (bisexual).

1. Lịch sử
Tình dục đồng giới là một đặc điểm của văn hóa loài người từ rất xa xưa. Trong thời hy lạp cổ đại, tình dục đồng giới có xu hướng thịnh hành trong giới quý tộc đặc biệt là nam giới và còn được chấp nhận là một phần của tiêu chuẩn văn hóa trong thời kỳ này. Tuy nhiên những hành vi quan hệ tình dục qua đường hậu môn hoặc đường miệng không được tán thành. Đến thời kỳ thiên chúa giáo đã cấm đoán một cách nghiêm túc cách hành vi trên. Tình dục đồng giới được coi là những hành vi xấu xa và báng bổ thánh thần. Những người vi phạm sẽ bị phạt những hình phạt nặng nề như thiêu trong lửa hoặc tử hình. Thời Đức quốc xã, chính quyền cố ý tiêu diệt những người đồng tính vì cho rằng họ là “sự lầm lạc của xã hội”. Khoảng 5000 đến 15.000 nam giới đồng tính bị đưa vào trại tập trung và giết hàng loạt.
Tại châu Á, tình dục đồng giới cũng xuất hiện từ rất lâu đời. Những người tây phương đến các khu này thường sửng sốt về việc nó được chấp nhận và trưng bày công khai. Tại Trung Quốc, tình dục đồng giới được ghi nhận từ năm 600 trước công nguyên. Nhiều từ nói trại được dùng để miêu tả việc này. Các mối quan hệ đồng tính xảy ra giữa những người có tuổi tác và địa vị xã hội khác biệt nhau. Trong quyển Hồng Lâu Mộng, những việc âu yếm và quan hệ tình dục giữa những người đồng giới cũng đã được mô tả.
Tại Nhật Bản, hành vi này được gọi là shudo (chúng đạo) hay nanshoku (男色 nam sắc), đã được ghi lại trong nhiều tài liệu trên một nghìn năm và là một phần quan trọng trong các tu viện đạo Phật cũng như truyền thống samurai. Nền văn hóa ái tình đồng tính này đã dẫn đến một truyền thống hình vẽ và văn chương ghi nhận và ca tụng các quan hệ này.Truyện kể Genji là một trường thiên tiểu thuyết của Murasaki Shikibu (tác giả Murasaki- Một nữ sĩ cung đình Nhật Bản) cũng đề cập đến mối quan hệ này.
Tương tự, tại Thái Lan không có khái niệm “đồng tính luyến ái” mãi đến cuối thế kỷ 20. Tuy nhiên, Kathoey hay “trai nữ” là một phần trong xã hội Thái Lan trong nhiều thế kỷ. Họ là những người nam giới ăn mặc quần áo phụ nữ, có thể đã cắt bỏ phần ngoài của bộ phận sinh dục nam. Họ thường được xã hội chấp nhận, không bị phiền toái, tuy nhiên một gia đình có con trai trở thành Kathoey thường thất vọng. Quan niệm của đạo Phật trong xã hội Thái chấp nhận một giới tính thứ ba.
Trong thế kỷ 18 tình dục đồng giới trở thành một đề tài được nghiên cứu và tranh luận rất sôi nổi ở các xã hội phương tây. Sự chấp thuận về mặt pháp lý của những người đồng tính nam hoặc nữ vẫn còn là cuộc đấu tranh nóng bỏng trong lĩnh vực chính trị và tôn giáo của nhiều nước trên thế giới. Sau khi bị chính quyền Đức quốc xã cố ý tiêu diệt trong đệ nhị thế chiến, những người đồng tính đã giành được nhiều quyền, đặc biệt là tại các nước Tây phương. Một số quốc gia gần đây đã cho phép người đồng tính có quyền kết hôn cũng như nhận con nuôi.
Năm 1973, Hội tâm thần học Hoa Kỳ đã khẳng định tầm quan trọng của những nghiên cứu mới bằng cách không để tình dục đồng giới vào danh sách các bệnh tâm thần. Năm 1975 Hội Tâm lý Hoa Kỳ cũng đã thông qua một nghị quyết mà tình dục đồng giới không được xếp vào danh sách các bệnh tâm thần hay rối loạn tình cảm. Cả hai Hội đều yêu cầu các chuyên gia về sức khỏe tâm thần tham gia vào việc xóa bỏ cái tiếng xấu đã từng một thời gán cho tình dục đồng giới. Kể từ 1994, tình dục đồng giới không còn bị coi là bệnh nữa, không có tên trong bảng DSM (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders) của Hội tâm thần học Mỹ nữa.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia không ngăn cản quan hệ giũa các cá nhân đã qua tuổi cho phép của mỗi địa phương. Một số nơi còn công nhận, bảo vệ và ưu tiên cho việc tổ chức đám cưới đồng giới như Nam Phi, Isarel, Bỉ, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, Canada và một số tiểu bang ở Mỹ. Nhiều nước cũng hợp pháp hóa quan hệ giữa những người đồng tính. Quan hệ đồng tính hiện đang hợp pháp tại Đài Loan, Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan và Campuchia. Tại Singapore, Malaysia, Myanma và Ấn Độ, vì là những cựu thuộc địa của Anh, nó bất hợp pháp. Ở các nước như Iran, Nigeria, Mauritania, Pakistan, Ả Rập Saudi, Sudan, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Yemen tuyên án tử hình những người đồng tính. Nhiều hành vi bạo lực như tấn công bất ngờ, giam giữ, hãm hiếp, tra tấn, giết người hướng tới những người đồng tính do cá nhân hay một nhóm, một tổ chức thực hiên đã xuất hiện trên khắp thế giới. Tại Việt Nam hiện nay không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính, nhưng hôn nhân đồng tính là trái với luật hôn nhân và gia đình.
2. Dịch tể học
Quá trình điều tra dịch tể học dân số tình dục đồng giới gặp nhiều khó khăn do có những thái độ e ngại và vắng mặt khi trả lời các bảng câu hỏi. Dự đoán tình dục đồng giới chiếm từ 1 -10% dân số, trong đó tình dục đồng giới nam gặp nhiều hơn tình dục đồng giới nữ.
Nhiều nhà nhân chủng học có các nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, đây là một trong các vấn đề khá nhạy cảm của xã hội nên các số liệu có thể chưa nói hết được, bởi số người tự nhận mình là gay hoặc lesbian ít hơn nhiều so với thực tế.
Một báo cáo gây tranh cãi của Alfred Kinsey vào năm 1948 cho biết 37% nam giới đã có quan hệ với người đồng giới trước đó, 4% trong số đó có quan hệ chỉ một lần. Đối với phụ nữ, 2 đến 6% tuyên bố rằng họ đã từng có quan hệ này một lần.
Gagnon và Simon(1973) nghiên cứu trên số lượng lớn hai nhóm người có tình dục đồng giới nam và nữ dưới 30 tuổi : ở nam giới có quan hệ tình dục đồng giới một vài lần là 30%, nhiều lần là 3% và thường xuyên là 3%. ở nữ giới có quan hệ tình dục đồng giới một vài lần là 6%, nhiều lần là 2% và thường xuyên là 1%
Ở Canada, một báo cáo vào năm 2003 của cục thống kê quốc gia cho biết trong những người Canada độ tuổi 18 – 59, 1% tự nhận họ là gay hoặc lesbian, 0,7% tự nhận là bisexual.
Ở Mỹ, trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004, người ta ghi nhận có 4% cử tri tự nhận họ là gay hoặc lesbian. Tuy nhiên, do áp lực xã hội, nhiều người có thể không công nhận thiên hướng tính dục của mình.
Vào cùng thời gian, một cuộc điều tra về giới tính toàn cầu, 19% người Canada và 20% người Mỹ tuyên bố họ đã từng có “kinh nghiệm” về đồng tính.
3. Xu hướng tình dục và định hướng tình dục
3.1 Xu hướng tình dục
Xu hướng tình dục (sexual Orientation) là một trong 4 yếu tố tạo nên tình dục của con người, là sự hấp dẫn về mặt tình cảm và thể chất với một đối tượng thuộc giới nào đó. Những yếu tố còn lại là giới sinh học (cấu trúc gene, ngoại hình, nội tiêt), bản sắc giới (cảm nhận mình thuộc giới nam hay nữ) và vai trò xã hội của giới (có hành vi cư xử theo kiểu nam hay nữ-giới tính nam hay giới tính nữ về mặt tâm lý xã hội)
Có 3 xu hướng tình dục thường gặp là: Xu hướng tình dục đồng giới (hấp dẫn với người cùng giới – homosexuality), xu hướng tình dục khác giới (hấp dẫn với người khác giới – heterosexuality), và xu hướng lưỡng tính dục (hấp dẫn với cả hai giới – bisexuality). Cũng có thể có một xu hướng nữa tuy rất hiếm gặp là không hấp dẫn với giới nào cả.
Phần đông con người chỉ có cảm giác hấp dẫn tình dục với người khác giới, một số ít người có cảm giác hấp dẫn với người cùng giới hoặc khác giới và một số ít người khác có cảm giác hấp dẫn tình dục chỉ với người cùng giới. Vì thế trên phương diện xu hướng tình dục, con ngừoi được xếp vào 3 nhóm đối tượng tương ứng là dị tính luyến ái, lưỡng tính luyến ái và đồng tính luyến ái. Xu hướng tình dục không phải là giới tính. Một xu hướng thứ tư nữa là không có hấp dẫn tính dục với bất cứ giới nào (asexual).
Không phải lúc nào xu hướng tình dục cũng được biểu lộ ra để mọi người nhận thấy, nhiều khi nó được dấu kín. Xu hướng tình dục cũng khác với hành vi tình dục, vì xu hướng tình dục liên quan đến cảm nhận về bản thân, trong khi hành vi tình dục được biểu hiện bằng hành động tìm kiếm khoái cảm Những người phát triển một xu hướng tình dục nào đó thường có hành vi tình dục ổn định. Những người có xu hướng tình dục khác giới thì thà sống một mình hoặc tìm bạn tình khác giới chứ không thể chấp nhận thực hành tình dục với người cùng giới, còn những người có xu hướng tình dục đồng giới thì cũng chỉ tìm bạn tình đồng giới hoặc đành chịu sống một mình. Những người có xu hướng tình dục đồng giới có thể là nam hay nữ. Với người phát triển xu hướng lưỡng tính dục thì có thể chỉ quan hệ tình dục với người cùng giới hoặc chỉ với người khác giới hoặc có thể có quan hệ tình dục được với cả 2 giới hoặc sống một mình..
Xu hướng tình dục khác với hành vi tính dục vì xu hướng tình dục chỉ đề cập đến cảm xúc và sự cảm nhận về chính mình. Có người biểu lộ cũng có người giấu kín xu hướng tình dục trong hành vi của họ. Cái gì làm cho người ta có một xu hướng tình dục nào đó? Xu hướng tình dục đã phát triển như thế nào ở một cá thể còn chưa được biết rõ lắm. Đã có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của sự phát triển các xu hướng tình dục khác nhau, vận dụng đến cả các yếu tố di truyền hay bẩm sinh và những hoàn cảnh nuôi dưỡng, giáo dục trong tuổi thơ ấu. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học chia xẻ quan điểm cho rằng xu hướng tình dục đã hình thành từ rất sớm ở hầu hết mọi người ngay từ khi còn nhỏ tuổi do những tác động qua lại phức tạp của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội.
Xu hướng tình dục không phải là sự lựa chọn, xu hướng tình dục hình thành ở hầu hết mọi người ngay từ tuổi vị thành niên sớm khi chưa trải qua một kinh nghiệm tình dục nào. Một số người đã cố gắng rất nhiều trong nhiều năm để thay đổi xu hướng tình dục từ đồng giới sang khác giới nhưng đều không thành công. Vì những lý do đó, các nhà tâm lý không coi xu hướng tình dục là sự lựa chọn có ý thức mà người ta có thể tuỳ ý thay đổi được. Có 2 giả thuyết khác nhau hoàn về xu hướng tình dục:
- Là một quyết định tuổi vị thành niên, có thể thay đổi bầt cứ lúc nào bằng cầu nguyện hoặc bằng cách giải thích cho hiểu rõ. Hành vi tình dục đồng giới giống như hành vi nghiện ma tuý đôi khi rất khó cai.
- Hình thành từ rất sớm, muộn nhất thì cũng vào tuổi đi học. Nhiều khi còn hình thành từ trước khi sinh, có lẽ ở lúc thụ thai, đương sự và cha mẹ hoàn toàn không kiểm soát được xu hướng này.
3.2. Định hướng tình dục
Định hướng tình dục là giới mà một người thấy bị hấp dẫn về thể xác hay tình cảm. Những người bị hấp dẫn tình dục bởi người khác giới được gọi là người tình dục khác giới (heterosexual/straight). Người bị hấp dẫn tình dục bởi người cùng giới được gọi là người tình dục đồng giới (homosexual/gay/lesbian). Những người bị hấp dẫn tình dục bởi cả hai giới là người tình dục lưỡng giới (bisexual).
Hiện nay người ta vẫn đang tranh cãi về các nguyên nhân của các loại định hướng tình dục khác nhau. Có tác giả cho rằng là do yếu tố sinh học, có tác giả khác cho là do môi trường. Định hướng tình dục có thể phát triển từ rất sớm, từ trước khi sinh, trước tuổi dậy thì hay trước khi có quan hệ tình dục và nó cũng có thể thay đổi trong suốt cuộc đời.
Sợ hãi với quan hệ tình dục đồng giới (homophobia) Trong xã hội hiện tại của chúng ta vẫn còn rất nhiều người sợ hãi và ghét bỏ những người quan hệ tình dục đồng giới nam hay nữ hay những người quan hệ tình dục lưỡng giới. Sự sợ hãi này gây ra do ta thiếu hiểu biết hay thiếu thông tin về những người quan hệ tình dục đồng tính hay lưỡng tính. Thay vì việc tìm hiểu và tôn trọng những người có đa dạng định hướng tình dục, nhiều người đã tin ngay về những tin đồn thất thiệt rằng những người quan hệ tình dục đồng tính là những người nguy hiểm, bệnh hoạn hay tệ nạn. Nhiều bạn trẻ vì sự thiếu hiểu biết này đã rất lo sợ khi phát hiện ra mình là người có định hướng tình dục đồng giới. Thậm chí những người này còn chán ghét bản thân và có thể có những phản ứng tiêu cực.Cha mẹ và bạn bè có thể đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo với những người có định hướng tình dục đồng tính rằng những hành vi của họ là lành mạnh, bình thường và tự nhiên.
4. Nguyên nhân của tình dục đồng giới
Các hằng số nhân chủng học của cả hai giới nam và nữ được đem ra so sánh giữa quần thể người có tình dục bình thường và người tình dục đồng giới. Các chỉ số về chiều cao, cân nặng, hệ lông tóc, ..đều không có sự khác biệt giữa hai quần thể. Các định lượng về nồng độ các hormon trong máu và các thực nghiệm lâm sàng dùng androgen hoặc estradiol cũng không có sự khác biệt giữa hai nhóm.Những nghiên cứu về nhiễm sắc thể gần đây giữa hai nhóm cũng không mang lại kết quả gì.
Khuynh hướng chung hiện nay cho rằng có nhiều yếu tố dẫn đến tình dục đồng giới : yếu tố sinh học, tâm lý xã hội, kể cả tiềm thức của con người
Lý thuyết được quan tâm nhiều nhất là sự phân tích tâm tính dục (psychosexuality) của nhà phân tâm học Sigmmund Freud (1856-1939). Theo Freud các hiện tượng tình dục đồng giới, con trai vì quá lo sợ đã yêu mẹ mình một cách tính dục nên đã quay lại yêu những người đồng giới hoặc cậu con trai vì quá yêu mẹ nên mang nữ tính của mẹ và bắt đầu yêu những người đồng giới. Đối với nữ giới, cô con gái vì không thể yêu bố mình một cách tính dục nên quay lại yêu mẹ mình tức là nữ giới, hoặc bực tức vì không có dương vật, cô con gái muốn tỏ bản thân cũng như nam giới như bố mình và yêu người đồng giới nữ.
Những nghiên cứu gần đây đã tìm ra được một sự khác biệt đáng kể giữa những người đồng tính và không đồng tính:
- Kích thước trung bình của vùng INAH 3 (một cấu trúc vùng đồi thị ) ở những người đồng tính nam bằng với người nữ bình thường nhưng nhỏ hơn có ý nghĩa so với người nam bình thường.
- Ba vùng của não (hải mã trái, hạnh nhân phải, vùng vỏ trán trước) hoạt động mạnh hơn ở những người đồng tính nam hơn là ở nam giới bình thường.
- Nhân trước giao thoa (suprachiasmatis) ở não lớn hơn ở những người đồng tính nam hơn nam giới bình thường.
- Não của những người đồng tính nam có đáp ứng khác với fluoxetin (chất ức chế chọn lọc sự hấp thu serotonin).
- Chức năng tai trong của những người đồng tính nữ và lưỡng tính dục giống như ở nam giới hơn là nữ giới.
- Đáp ứng giật mình của người đồng tính nữ và lưỡng tính dục giống như ở nam giới.
- Mùi ở nách khác nhau ở những người đồng tính nam và nam giới bình thường.
- Tỉ lệ về chiều dài của ngón trỏ và ngón đeo nhẫn khác nhau giữa nam giới bình thường và những người đồng tính nữ.
- Những người đồng tính nam hoặc nữ thường thuận tay trái hoặc 2 tay.
- Dương vật của những người đồng tính nam thường to và dài hơn nam giới bình thường.
- Kiểu tóc ưa thích của những người đồng tính nam là chải tóc ngược chiều kim đồng hồ.
- Những người đồng tính nam hoặc nữ thường diễn đạt lời nói trôi trải hơn người bình thường.
- Những người đồng tính nam luôn nhận được đỉêm cao trong các bài text định vị vật thể.
5. Biểu hiện lâm sàng
Các nhà tâm lý nhấn mạnh điểm chung của người đồng tính là sự mặc cảm tội lỗi, sợ sệt, tâm lý hoảng loạn dễ bị tổn thương do không giống ai trong việc lựa chọn đối tượng tình dục và tình yêu của họ không được xã hội chấp nhận. Với người dị tính sự thể hiện tình càm của họ thường công khai và được xã hội châp nhận. Còn người đồng tính thì ngược lại : âm thầm, lén lút vì sự kỳ thị của xã hội.
Điểm chung là người đồng tính là sợ sự đồng tính. Không ít người cho sở dĩ bị đồng tính là do người đồng tính thích được như vậy nhưng thực ra người đồng tính không có quyền lựa chọn. Với người dị tính chuyện đồng tính chỉ thực sự ghê sợ khi có sự tiếp xúc thân mật hoặc thể hiện tình cảm từ người cùng giới. Nhưng với những người đồng tính sự ghê tởm đó luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động. Mặc dù ghê sợ sự đồng tính nhưng họ không thể triệt tiêu được ham muốn quan hệ sinh lý với người cùng giới.
Một điểm chung nữa thường thấy ở người đồng tính là không dám tự thú mình là người đồng tính, trừ phi họ là người đồng tính ở cấp độ nặng không thể giấu được hoặc dũng cảm công bố xu hướng tình dục sai lệch của mình để sống thanh thản hơn.
Các biểu hiện của người đồng tính: không rung động trước người khác phái dù người đó hoàn hảo về hình thức và tính cách, có những biểu hiện nội tâm như người khác phái, thích và cảm thấy thoải mái khi giao tiếp với người cùng giới. Đặc biệt là có những giấc mơ ân ái với người cùng giới có lẽ do bị kìm nén, ức chế về tâm sinh lý .
Thực ra những người đồng tính không bao giờ muốn họ là như vậy. Ho rất đau khổ vì sự chẳng giống ai của mình. Họ cố gắng chống lại sự trớ trêu của tạo hoá nhưng họ càng cố thì họ càng bất lực. Sự kỳ thị của gia đình, xã hội không giúp họ sửa được sự sai lệch về xu hướng tình dục mà còn làm cho họ có thái độ bất cần đời, hăng hái hơn trong việc thể hiện bản thân và lôi kéo những người đồng cảnh.
Thực ra rất khó phân biệt người đồng tính vì trong cuộc sống những người trông rất nam tính nhưng thực sự là người đồng tính. Hơn nữa không người đồng tính nào thể hiện qua cách ăn mặt, nói năng, cử chỉ. Cho dù có phát hiện ra thì cũng không bao giờ họ chịu thừa nhận.
Tình cảm của những người đồng tính rất dễ thay đổi và không chung thuỷ do ngoài nhu cầu sinh lý họ không có những ràng buộc về ý nghĩa hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng, vì tương lai hạnh phúc con cái. Hơn nữa họ không thỏa mãn với bạn tình hiện tại mà luôn khao khát những người bạn mới vì cho dù người bạn hiện tại có chiều chuộng, đáp ứng nhu cầu sinh lý cho họ đến mức nào thì tất cả cũng chỉ đạt nữa vời nên họ vẫn thấy hụt hẫng.
Người ta chia đồng tính thực thụ (100% có nhu cầu sinh lý với người cùng giới và không có nhu cầu sinh lý với người khác giới) và người đồng tính ở mức độ nhẹ( ham muốn sinh lý với người cùng giới ở mức độ thấp, hoặc ở một giai đọan nào đó của cuộc đời, vẫn có vợ chồng , vẫn có nhu cầu sinh lý với người khác giới nên vẫn sinh con bình thường như người dị tình luyến ái). Tuy nhiên đã có quan hệ tình dục đồng giới thì ít nhiều trong cuộc sống vợ chồng bị ảnh hưởng.
Người ta căn cứ vào khuynh hướng tình dục để chia ra làm 7 cấp độ đồng tính, trong đó cấp độ 0 là 100% chỉ ham muốn tình dục với người khác giới, cấp độ 6 là cấp độ chỉ có ham muốn tình dục với người cùng giới, có nghĩa là họ đồng tính 100%. Các cấp độ còn lại đều có ham muốn tình dục với cả hai giới tuỳ theo cấp độ ham muốn tình dục đồng giới ở những con số khác nhau. Điều đó lý giải tại sao có những người tưởng như rất rõ về giới tính nhưng lại thấy hưng phấn và đạt tới cực khoái khi chịu sự kích thích từ người đồng giới .
Khi nghiên cứu các người có xu hướng và hành vi tình dục đồng giới, cần phân tích 3 yếu tố riêng biệt là ý thức, ham muốn, và hành vi. Khi có cảm hứng hoặc có thể ham muốn trong chốc lát hoặc có hành vi trong hoàn cảnh nhất định mà không có ý thức sâu sắc. Hiện tượng này có thể xảy ra trong bối cảnh chiến tranh , nhà tù , hay giữa các vị thành niên.
Những người tình dục đồng giới thường thường sống với nhau thành từng đôi một hoặc có thể quan hệ rộng rãi hơn. Không ít đôi sống với nhau khá chung thủy và để gắn bó thêm tình cảm họ có thể chấpnhận thêm con nuôi.
Quan hệ tình dục giữa những người tình dục đồng giới là những tình cảm lãng mạn và hành vi tình dục theo sự sáng tạo của họ để thỏa mãn cả hai người. Ngoài các hành vi thông thường như ôm ấp, vuốt ve, hôn, các hành vi quan hệ tình dục thường là thủ dâm, khẩu dâm và phổ biến là quan hệ qua đường hậu môn. Đối với những cặp đồng tính có thể có những dụng cụ có hình dáng khác nhau để đưa vào âm đạo.
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn là sự giao hợp giữa hai người không qua cách thông thường mà để dương vật, ngón tay hay bất cứ vật gì vào hậu môn của bạn tình. Hậu môn không thể tự tiết ra chất nhờn giống như âm đạo nên có thể làm rách bao cao su, vì vậy phải dùng chất bôi trơn. Tuy nhiên, chất nhờn bôi trơn với thành phần dầu có thể dễ gây nhiễm khuẩn. Ngoài ra, nhiều loại dầu hay kem thường chứa các chất phụ gia và chất tạo mùi, gây khó chịu, dị ứng cho người sử dụng.
Khi quan hệ qua đường hậu môn, bạn tình sẽ dễ bị chảy máu hậu môn, đau suốt thời gian quan hệ do các cơ bị co thắt, không có độ đàn hồi. Trong trường hợp đặc biệt, bạn tình có thể bị rách trực tràng vì hậu môn chỉ dài có 5 cm. Rách trực tràng dẫn đến viêm phúc mạc, là một tình trạng bệnh lý ngoại khoa khẩn cấp cần can thiệp phẫu thuật sớm, nếu không có thể dẫn đến tử vong.
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn là nguy cơ lây lan các bệnh truyền nhiễm cao nhất, và sẽ khó phát hiện nếu tổn thương không xuất hiện ở dương vật. Ngoài ra virus HIV cũng rất dễ phát tán khi quan hệ tình dục bằng đường hậu môn. Ngoài ra, quan hệ tình dục bằng đường hậu môn còn là nguyên nhân gây lây nhiễm các bệnh như HPV, viêm gan A, viêm gan siêu vi A, Escherichia, herpes, lậu, giang mai, mồng gà, nấm và ký sinh trùng. Tất cả những bệnh lây truyền qua đường tình dục đều lây truyền khi quan hệ qua đường hậu môn.
Không có gì phải ngại nếu bạn quan hệ tình dục đường hậu môn vì đây cũng là một trong những hình thức quan hệ tình dục bình thường và có những người chỉ có thể đạt được cực khoái khi quan hệ tình dục theo cách này. Điều quan trọng là việc chú ý phòng tránh các bệnh lây nhiễm và tổn thương tại hậu môn – trực tràng.
Hãy luôn sử dụng bao cao su và nếu như hai bạn không dị ứng với dầu bôi trơn đặc chủng dành cho việc quan hệ tình dục thì việc sử dụng nó có thể giúp bạn an toàn và dễ chịu hơn. Ngoài ra, việc luôn vệ sinh sạch sẽ hậu môn cũng như dương vật hay dụng cụ hỗ trợ cũng đều quan trọng và giúp giảm nguy cơ gây bệnh ở cả hai người.
Về các bệnh lý thường gặp trong quan hệ đồng giới, đối với nữ giới dễ mắc viêm âm đạo do vi khuẩn. Ít nguy cơ mắc các bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư cổ tử cung, bệnh giang mai, lậu, Chamlamydia, HSV, virus Papilomma, HIV. Chú ý khả năng nhiễm HIV sẽ tăng khi sử dụng ma tuý hoặc quan hệ với các bạn tình lưỡng giới. Đối với nam giới HIV rất hay gặp. Theo Kelly năm 1992 có 34974 trường hợp nhiễm AIDS tại Hoa Kỳ , tình dục đồng giới chiếm 35-50%. Nguy cơ ung thư hậu môn rất lớn (gấp 25 – 50 lần so tình dục khác giới). Viêm niệu đạo và viêm trực tràng do giang mai, lậu, Chlamydia rất lớn.
6. Thái độ điều trị
Hầu hết các khoa học gia về tính dục người đều chia sẻ quan điểm rằng xu hướng tình dục là cố định và không thể thay đổi.
Trước đây người ta đã nghĩ ra nhiều phương pháp rất thô bạo để loại bỏ những cảm xúc tình dục đồng giới và tạo ra những cảm xúc tình dục khác giới, ví dụ như cắt bỏ vú và tử cung hoàn toàn lành lặn ở người tình dục đồng giới nữ, gây choáng điện ở người tình dục đồng giới nam khi cho họ xem hình ảnh người nam giới trần truồng, phẫu thuật não ở thùy trán, cắt hai tinh hoàn…
Thời kỳ Đức quốc xã, Himmler còn thử chữa trị cho những người tình dục đồng giới nam bằng cách bắt họ đến các nhà chứa ở Flossenburg buộc họ phải làm quan hệ với nữ giới nhưng không mấy kết quả.
Nhiều phương pháp khác ôn hòa hơn như dùng thuốc chiết xuất từ động vật, cocaine, estrogen, testosterone, cầu nguyện và tư vấn về tâm linh… nhưng tất cả các phương pháp đều chẳng đem lại sự thành công nào.
Hội tâm lý Mỹ năm 1990 còn đưa ra những bằng chứng rằng việc điều trị để thay đổi xu hướng tình dục không những không có tác dụng mà còn có hại nhiều hơn có lợi.
Thay đổi xu hướng tình dục của một người không đơn thuần là vấn đề thay đổi hành vi tình dục của người đó, còn phải thay đổi cả ý tưởng và cảm xúc tình dục, phải cải tạo lại cả cảm nhận về bản thân và căn tính xã hội (social identity). Mặc dù có một số nhà khoa học về sức khỏe tinh thần cố gắng thay đổi XHTD nhưng nhiều người vẫn đặt những câu hỏi về đạo lý, tại sao lại phải thay đổi một nét nhân cách không được coi là một rối loạn và cực kỳ quan trọng đối với bản sắc của một con người.
Kể từ 1994, tình dục đồng giới không còn bị coi là bệnh nữa, không có tên trong bảng DSM(Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders) của Hội tâm thần học Mỹ nữa, không chữa trị gì hết, có chăng là hỗ trợ tâm lý để giúp người ĐTA yêu đời và dễ hòa nhập hơn.
Những người đồng giới vẫn có thể là những cha mẹ tốt. Đã có nhiều công trình nghiên cứu so sánh những đứa trẻ do các bậc cha mẹ là người đồng giới nuôi dạy với những đứa trẻ do các bậc cha mẹ có xu hướng tình dục khác giới nuôi dạy thì thấy không có sự khác biệt nào giữa 2 nhóm trẻ này về mặt chỉ số thông minh, tâm lý xã hội, chan hòa với bạn bè, phát triển giới tính, bản sắc giới và xu hướng tình dục.
Có liệu pháp nào có thể thay đổi được xu hướng tình dục không? Không. Và không có lý do khoa học nào khiến phải tìm cách biến những người tình dục đồng giới thành những người có hành vi tình dục khác giới.
7. Nhận thức xã hội về tình dục đồng giới
Các nghiên cứu xã hội học đã khẳng định rằng, xã hội nào cũng có hiện tượng tình dục đồng giới, biểu hiện đồng tính luyến ái như nhau. Tỉ lệ người đồng tính luyến ái gần như không thay đổi ở mọi xã hội, thời đại. Nhiều người đã xem xét vấn đề tình dục đồng giới dưới góc độ đạo đức và tôn giáo mà không quan tâm đến các yếu tố sinh học một cách nghiêm túc để hiểu rõ hơn xu hướng tình dục này, đó là nguyên nhân chính dẫn tới sự kì thị với người tình dục đồng giới. Có hại hay không có hại cho giống loài có lẽ là cốt lõi của vấn đề chấp nhận hay không chấp nhận. Mọi người cần thấy rằng tình dục đồng giới không có hại cho cộng đồng vì không lây lan, chỉ thuộc một số người hạn chế, không hề đe dọa sự tồn tại của giống loài. Vì vậy người tình dục đồng giới không thể là mục tiêu để phải chịu sự kỳ thị hoặc đàn áp của xã hội. Nhận thức như vậy cho nên trên thế giới nhiều nước đã đặt hành vi tình dục đồng giới dưới sự bảo vệ của pháp luật, coi đó là biểu hiện của xu hướng tình dục tuy khác đa số người nhưng cần được bình đẳng về mọi mặt như những người khác.
Hiện nay cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế bảo vệ quyền cho những người có xu hướng tình dục được coi là thiểu số này. Siecus trong phát biểu về những nguyên lý của tính dục người đã nói: “Xu hướng tình dục là vấn đề thuộc về quyền cơ bản của con người, là thành phần của bản sắc giới, giới tính và là sự tự khẳng định chức năng tính dục của mỗi người thuộc tình dục đồng giới hay khác giới”.
Sự không hiểu biết đầy đủ của một bộ phận cộng đồng về loại xu hướng tình dục đồng giới này đã gây cho người tình dục đồng giới nhiều khó khăn và thiệt thòi trong đời sống. Có nhiều người có tâm trạng bế tắc, chán chường, thậm chí muốn tự tử, có người đã cầu cứu đến các nhân vật khoa học, các nhà văn để giãi bày nỗi khổ của mình. Vậy không thể bỏ qua nguyện vọng chính đáng của người tình dục đồng giới là được sống như một nhân cách bình thường khác, không bị kỳ thị, thành kiến, coi thường. Muộn còn hơn không bao giờ, đã đến lúc cần có những nghiên cứu nghiêm túc về thực trạng nhóm người có xu hướng tình dục đồng giới để có định hướng dư luận xã hội đúng đắn.
Có cách gì giúp những người “đặc biệt ?. Điều này thì cũng hơi bị khó đấy. Suy cho cùng những người “đặc biệt” thực sự không có lỗi gì đối với những lệch lạc của họ cả. Nếu họ thực sự muốn trở về với “chuẩn mực” bình thường thì họ tự phải nhận thức, kèm theo có sự giúp đỡ của các bác sĩ tâm lý. Còn chúng ta, những ngừơi tự cho là “không lệch lạc” thì chỉ có 1 cách giúp đỡ duy nhất là “hiểu” và cảm thông với họ mà thôi. Bởi nếu càng xa lánh, càng kỳ thị thì rõ ràng là bạn đang đẩy họ vào bước đường cùng. Những “lệch lạc” đó chỉ có thể chữa được khi những người này có quyết tâm và những người bình thường thật sự bao dung với họ.
Làm sao đây nếu tôi đồng tính?. Biết mình bị đồng tính không phải là một điều thật khó khăn để chấp nhận và đối mặt, cho dù bạn là ai. Những vị thành niên đồng tính thường đau khổ, dằn vặt, sống khép mình với những người khác. Thanh thiếu niên bị đồng tính có khuynh hướng tự tử nhiều hơn thanh thiếu niên bình thường. Nếu bạn có khuynh hướng tình dục đồng giới, hi vọng bạn là một trong những người dũng cảm chấp nhận sự thật đã an bài. Nếu không chấp nhận, bạn còn có cách nào khác? Không ai có thể chấp nhận bạn khi chính bạn không thể chấp nhận chính bản thân mình. Bạn có thể tìm đến những người cùng cảnh ngộ để tìm sự sẻ chia thông cảm. Nếu bạn quá đau đớn tuyệt vọng không biết tiếp tục cuộc sống của mình như thế nào, bạn có thể tìm đến sự hỗ trợ của các chuyên gia tư vấn tâm lý.
Bạn có thể lựa chọn giữ kín bí mật cho riêng mình hoặc công khai cho bạn bè, người thân. Đây là việc hệ trọng bởi điều bạn nói ra sẽ khiến không ít người sốc và không thể rút lại được. Nếu bạn tin rằng những người bạn yêu mến có thể thông cảm và giữ bí mật cho bạn, hãy chia sẻ để cuộc sống của bạn nhẹ nhàng hơn.
Dù điều gì xảy ra đi nữa, có rất nhiều người đồng tính trên thế giới đang sống dũng cảm và có ích, bạn có thể là một trong số đó. Dù văn hoá phương Đông hay Tây, trong mắt mọi người, những người đồng tính là những kẻ bệnh hoạn, nhơ nhuốc về nhân cách, càng tránh xa càng tốt. Cho dù anh ta hay chị ta có đóng góp cho xã hội như thế nào, nhân cách tốt đẹp như thế nào cũng trở thành tiêu điểm của sự dèm pha, chế giễu. Tóm lại những người đồng tính luôn bị xã hội kỳ thị. Thật sự họ rất cần sự thông cảm, động viên của mọi người để họ hoà nhập với cuộc sống cộng đồng.

Xem thêm Ảnh và video clip tại đây

Mời các bạn tham gia thảo luận về chủ đề "Tình dục đồng giới và xu hướng " trên Diễn Đàn

Chia sẻ link qua Facebook Gửi bài viết này cho bạn bè

0 nhận xét to "Tình dục đồng giới và xu hướng"

Leave a comment